DHTax

Quy định về lập di chúc mới

Từ trước đến thời nay, lập di chúc đối với một cá nhân là một công tác quan trọng đối với bản thân người tạo di chúc và người hưởng di sản. Nhưng chẳng phải lúc nào lập di chúc thì bản chúc thư mà người trở về cát bụi để lại sẽ được thực hiện trọn vẹn toàn thể ý chí của người để lại di chúc. Không những thế, việc vận dụng chúc thư còn chịu ảnh hưởng bởi nhân tố quan trọng là quy định của luật.


Dựa trên qui định tại Điều 609 Bộ luật dân sự 2015: “Cá nhân có quyền lập chúc thư để định đoạt gia sản của mình; để lại gia sản của mình cho người thừa kế căn cứ pháp luật; hưởng gia sản theo di chúc hoặc dựa trên pháp luật. Người thừa kế ko là tư nhân có quyền hưởng gia sản theo như di chúc”.

Như vậy, so với luật pháp hiện hành, BLDS năm 2015 đã bổ sung quyền của người thừa kế "không là cá nhân", tức là pháp nhân hay tổ chức. Theo quy định này, người thừa kế là cá nhân có quyền hưởng di sản thừa kế dựa theo di chúc hay dựa theo pháp luật, còn người thừa kế là pháp nhân hay đơn vị chỉ có năng lực thừa hưởng thừa kế theo như di chúc.

 Quy định về lập di chúc mới
 Quy định về lập di chúc mới

Căn cứ nguyên tắc Điều 644 BLDS 2015. Người thừa kế ko phụ thuộc vào nội dung của di chúc: những người tiếp theo đây vẫn được lợi phần di sản bằng 2 phần ba suất của 1 người thừa kế theo luật nếu tài sản được chia căn cứ pháp luật, trong tình thế họ ko được người lập chúc thư cho hưởng gia sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2 phần ba suất đó:

a) Con chưa thành niên, bố, má, bà xã, chồng;

b) Con thành niên mà ko có năng lực làm việc.

vì vậy việc di chúc ko có bài viết dưới đây chi cho những người được quy định tại khoản 1, điều 644 này thì họ vấn được lợi 2/3 so với một suất thừa kế. Bởi thế nội dung bên dưới bản chúc thư sẽ không được thực hành hoàn toàn căn cứ ý nguyện người lâm chung để lại.

Thứ hai là nguyên tắc người thừa kế: (người được hưởng tài sản của người đã về với đất mẹ theo như chúc thư hoặc theo như qui định của pháp luật), Điều 613 BLDS quy định: "Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời khắc mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời khắc mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản trở về cát bụi. Bối cảnh người thừa kế dựa theo chúc thư không là tư nhân thì phải hiện hữu vào thời khắc mở thừa kế".


Thứ ba là về thời hiệu thừa kế: Bộ luật dân sự hiện hành quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia tài sản, công nhận quyền hưởng gia sản thừa kế của mình hoặc chối cãi quyền thừa kế của người khác là 10 năm, tính từ lúc thời khắc mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để đề nghị người thừa kế thực hành trách nhiệm về di sản của người mất để lại là 03 năm, diễn ra từ thời khắc mở thừa kế" (Điều 645).

Nguyên tắc trên đang tồn tại một bất cập là có phổ thông tài sản thừa kế bị tranh dành nhưng do hết thời hạn khởi kiện nên người thừa kế tài sản không thể nào đăng ký quyền sở hữu. Có nhiều duyên cớ dẫn đến hiện trạng này như người thừa kế ko nắm rõ những quy định của luật về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế, xuất phát từ tình cảm gia đình, họ tộc, do cơ hội khách quan, hay xuất phát từ sự ràng buộc về đạo lý, truyền thống của đất nước nước ta, con mẫu không dám đề nghị chia thừa kế lúc thầy hoặc mẹ còn sống hoặc thầy, bu chết trong thời gian ngắn.

Giải quyết bất cập này, điều 623 Bộ luật pháp dân sự năm 2015 quy định như sau:

"1. Thời hạn để người thừa kế yêu cầu chia tài sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, bắt đầu từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì tài sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Hoàn cảnh ko có người thừa kế đang điều hành gia sản thì di sản được khắc phục như sau:

a) Gia sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm đoạt dựa theo nguyên tắc tại Điều 236 của Bộ pháp luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu ko có người chiếm hữu nguyên tắc tại điểm a khoản này.

2. Thời hạn để người thừa kế yêu cầu chứng nhận quyền hưởng tài sản thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền hưởng tài sản thừa kế của người khác là 10 năm, bắt đầu từ thời điểm mở thừa kế.

3. Thời hiệu đề xuất người thừa kế thực hiện trách nhiệm về di sản của người trở về cát bụi để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".

Thứ tư là người tạo lập di chúc (Điều 625 BLDS):

- Người thành niên có đủ điều kiện dựa trên quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 630 của Bộ luật pháp này có quyền tạo lập di chúc để quyết định di sản của mình.

- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được tạo chúc thư, nếu được thầy, má hoặc người giám hộ đồng ý về việc tạo di chúc".

Thứ năm điều kiện đúng luật của chúc thư, Điều 630 BLDS quy định:

"1. Di chúc hợp pháp phải có đủ những điều kiện sau đó đây:

a) Người lập chúc thư minh mẫn, minh mẫn trong khi lập di chúc; ko bị lừa dối, nạt đe, cưỡng ép;

b) Nội dung của chúc thư không vi phạm điều cấm của luật pháp, ko trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc ko trái nguyên tắc của luật pháp.

2. Chúc thư của người từ đủ mười lăm tuổi tới chưa đủ mười tám tuổi phải được tạo lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc tạo chúc thư.

3. Chúc thư của người bị giảm thiểu về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm cho chứng tạo thành văn bản và có công chứng hoặc công nhận.

4. Di chúc bằng văn bản ko có công chứng, công nhận chỉ được coi là đúng luật, nếu có đủ những điều kiện được nguyên tắc tại khoản một Điều này.

5. Chúc thư miệng được coi là hợp lệ nếu người di chúc mồm biểu đạt ý chí chung cuộc của mình trước mặt chí ít hai người mang lại chứng và ngay tiếp theo khi người chúc thư mồm biểu hiện ý chí rút cục, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hiệu 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc mồm biểu lộ ý chí rốt cục thì chúc thư phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng nhận chứng thực chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm cho chứng".

Thứ sáu về hình thức của di chúc, Điều 627 BLDS quy định: chúc thư phải được tạo lập thành văn bản; nếu không thể tạo được di chúc bằng văn bản thì có khả năng di chúc mồm. Chúc thư miệng chỉ được xác nhận là đúng luật trong bối cảnh tính mạng một người bị chiếc lâm chung ăn hiếp dọa và chẳng thể tạo lập di chúc bằng văn bản và sau đó 03 tháng, diễn ra từ thời khắc chúc thư mồm mà người tạo di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì chúc thư miệng mặc nhiên bị bãi bỏ (điều 629).

Thứ bảy về chúc thư chung của nương tử chồng: Chế định chúc thư chung của thê tử chồng trong Bộ pháp luật dân sự hiện hành có đa dạng bất cập trong việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung hay khi 1 bên bà xã hoặc chồng qua đời trước, những người thừa kế hợp pháp không thể yêu cầu phân chia tài sản thừa kế hoặc chia thừa kế buộc phải... Vậy nên, Bộ luật pháp dân sự năm 2015 không nguyên tắc di chúc chung của bà xã chồng.

Pháp luật dân sự nước ta qui định mọi tư nhân đều có quyền hưởng tài sản thừa kế theo di chúc hay căn cứ luật, ko phân biệt về trạng thái sức khỏe, giới tính… trừ 1 số hoàn cảnh qui định tại điều 621 BLDS: Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mệnh, thể trạng hoặc về hành vi bạc đãi hiểm nguy, bạc đãi người để lại di sản, xâm phạm hiểm nguy phẩm giá, phẩm giá của người đó; Người vi phạm nguy hiểm bổn phận nuôi dưỡng người để lại di sản; Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mệnh người thừa kế khác nhằm hưởng 1 phần hoặc toàn thể phần tài sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; Người có hành vi lừa dối, cưỡng chế hoặc hạn chế người để lại di sản trong việc tạo di chúc; giả mạo chúc thư, tu chỉnh di chúc, huỷ di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng 1 phần hoặc toàn thể di sản trái với ý chí của người để lại tài sản. Không những thế, theo như nguyên tắc tại khoản 2 điều 621 BLDS, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của các người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản dựa theo di chúc thì họ vẫn thừa hưởng gia sản.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Tư vấn thủ tục ly hôn với người mất tích

Dịch Vụ Tư Vấn Mua Bán Sáp Nhập Doanh Nghiệp

Dịch vụ kết hôn với người nước ngoài